Dưới đây là bản dịch Kết luận, gần đây nhất, của Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee) về Việt Nam vào năm 2002, sau khi xem xét Báo cáo của quốc gia:
Kết luận quan sát của Ủy ban Nhân quyền: Việt Nam. 26/07/2002.
CCPR/CO/75/VNM. (Kết luận quan sát / Bình luận)
(Concluding observations of the Human Rights Committee: Viet Nam. 26/07/2002. CCPR/CO/75/VNM. (Concluding Observations/Comments) )
Công ước viết tắt: CCPR
ỦY BAN NHÂN QUYỀN
Phiên họp 75
XEM XÉT BÁO CÁO CỦA QUỐC GIA THÀNH VIÊN NỘP THEO ĐIỀU 40 CỦA CÔNG ƯỚC
VIỆT NAM
1. Uỷ ban xem xét Báo cáo định kỳ thứ hai của Việt Nam (CCPR/C/VNM/2001/2), cuộc họp 2019, 2020 và 2021 (CCPR/C/SR.2019-2021), tổ chức vào ngày 11 và 12 tháng 7 năm 2002, và thông qua các quan sát kết luận sau tại cuộc họp thứ 2031 (CCPR/C/SR.2031), được tổ chức vào ngày 19 tháng 7 năm 2002.
A. Giới thiệu
2. Ủy ban hoan nghênh báo cáo định kỳ thứ hai của Quốc gia thành viên, trong đó có thông tin chi tiết về pháp luật trong nước trong lĩnh vực các quyền dân sự và chính trị, và cơ hội để tiếp tục cuộc thảo luận với Quốc gia. Ủy ban hoan nghênh quyết định của Quốc gia gửi một phái đoàn đông đảo đến từ thủ đô nước mình, bao gồm đại diện của các cơ quan chính phủ khác nhau, cho việc xem xét báo cáo. Tuy nhiên, Ủy ban lấy làm tiếc về sự chậm trễ đáng kể trong việc nộp báo cáo mà đến hạn nộp từ năm 1991. Nó cũng tiếc về sự thiếu hụt thông tin về tình hình nhân quyền trong thực tế, cũng như sự thiếu vắng các dữ kiện và số liệu về việc thực hiện Công ước. Kết quả là, một số cáo buộc đáng tin cậy và được chứng minh về các vi phạm quy định của Công ước, mà đã được gửi đến Uỷ ban, không thể được giải quyết có hiệu quả và Ủy ban thấy khó xác định liệu các cá nhân trong lãnh thổ và chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia có được hưởng đầy đủ và hiệu quả các quyền cơ bản của mình theo Công ước.
B. Các khía cạnh tích cực
3. Về vấn đề này, Ủy ban đã ghi nhận sự tiến triển trong nội bộ Quốc gia thành viên phản ánh một nới lỏng đối với các hạn chế chính trị đã phát sinh vấn đề nghiêm trọng về các vi phạm nặng nề các quyền được bảo vệ bởi Công ước.
4. Ủy ban lưu ý về những nỗ lực đang được thực hiện bởi Quốc gia nhằm cải cách trật tự pháp lý trong nước, phù hợp với các cam kết quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quyền con người.
C. Các lĩnh vực quan tâm và khuyến nghị
5. Uỷ ban quan ngại về tình trạng quy định pháp luật trong nước về các quyền trong Công ước vẫn chưa rõ ràng. Nó cũng quan ngại rằng một số quy định hiến pháp có vẻ không tương thích với Công ước và Hiến pháp Việt Nam không liệt kê tất cả các quyền Công ước, cũng không nêu mức độ mà chúng có thể bị hạn chế và các tiêu chuẩn được sử dụng. Uỷ ban quan ngại rằng theo pháp luật Việt Nam các quyền Công ước phải được giải thích theo cách có thể thỏa hiệp được với sự hưởng thụ các quyền này bởi tất cả các cá nhân.
Quốc gia cần đảm bảo sự bảo vệ hiệu quả tất cả các quyền được ghi nhận trong Công ước và đảm bảo rằng chúng được tôn trọng đầy đủ và được hưởng bởi tất cả mọi người (Điều 2).
6. Uỷ ban quan ngại về khẳng định của phái đoàn rằng vì những người thuộc thẩm quyền tài phán của Quốc gia có thể sử dụng các cơ chế quốc gia, Quốc gia không cần phải tham gia Nghị định thư không bắt buộc.
Quốc gia nên xem xét việc gia nhập Nghị định thư không bắt buộc để tăng cường bảo vệ quyền con người dành cho những người thuộc quyền tài phán của mình.
7. Mặc dù có sự giảm về số lượng các tội danh phải chịu phạt tử hình từ 44 xuống còn 29, Ủy ban vẫn quan tâm đến số lượng lớn các tội mà hình phạt tử hình vẫn có thể được áp dụng. Hình phạt có vẻ không chỉ để giới hạn chỉ cho những tội phạm được coi là nghiêm trọng nhất. Về mặt này, Ủy ban cho rằng định nghĩa một số hành vi nhất định như phản đối trật tự và vi phạm an ninh quốc gia, mà hình phạt tử hình có thể được áp dụng, là quá mơ hồ và không phù hợp với đoạn 2, Điều 6 của Công ước.
Quốc gia cần tiếp tục xem xét danh sách các tội danh mà hình phạt tử hình có thể được áp dụng để giảm và hạn chế ở những tội danh mà một cách chặt chẽ được coi là các tội nghiêm trọng nhất, theo yêu cầu khoản 2, Điều 6 và hướng đến việc bãi bỏ hình phạt tử hình như được khuyến khích tại Điều 6 của Công ước.
8. Mặc dù có những thông tin được cung cấp bởi đoàn đại biểu rằng chỉ có 3 người đang bị giam giữ hành chính, được phái đoàn gọi là quản chế, Ủy ban vẫn quan ngại về việc tiếp tục sử dụng thực hành này theo Nghị định 31- CP, vì nó cho phép quản thúc người tại gia cho đến 2 năm mà không có sự can thiệp của một thẩm phán hoặc một viên chức tư pháp. Ủy ban cũng quan tâm tương tự đến quy định tại Điều 71 của Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó công tố viên có thể kéo dài thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam một cá nhân không có giới hạn, “nếu cần thiết và đối với các tội phạm nghiêm trọng về an ninh quốc gia”.
Quốc gia cần đảm bảo rằng không người nào bị hạn chế tự do một cách độc đoán và tất cả những người bị tước tự do sẽ nhanh chóng được đưa ra trước một thẩm phán hoặc viên chức khác được ủy quyền thực hiện quyền tư pháp theo luật định, và rằng họ chỉ có thể bị tước đoạt tự do trên cơ sở của một phán quyết dựa trên pháp luật, theo yêu cầu của khoản 3 và 4, Điều 9 của Công ước.
9. Uỷ ban quan ngại rằng hệ thống tư pháp vẫn còn yếu do sự thiếu hụt các luật sư có trình độ và được đào tạo chuyên nghiệp, thiếu các nguồn lực cho ngành tòa án và sự nhạy cảm của nó trước áp lực chính trị. Ủy ban cũng lo ngại rằng Tòa án Nhân dân Tối cao không độc lập với ảnh hưởng của chính phủ. Cũng lo ngại về việc ngành tư pháp phải hỏi ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải thích pháp luật và Uỷ ban Thường vụ chịu trách nhiệm thiết lập các tiêu chuẩn và hướng dẫn có tính bắt buộc cho ngành tư pháp.
Để thực hiện Điều 14 của Công ước, Quốc gia nên có biện pháp hiệu quả để tăng cường tư pháp và bảo đảm nền độc lập của mình, và đảm bảo rằng tất cả các cáo buộc của áp lực quá mức về tư pháp được xử lý kịp thời.