GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong khoảng hai thập kỷ gần đây, giáo dục nhân quyền là vấn đề thu hút sự quan tâm thường xuyên của cộng đồng quốc tế. Nhiều tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt là Liên hợp quốc và UNESCO, đã có những chương trình hành động lớn và rộng khắp trên thế giới về vấn đề này.

Ở phạm vi quốc gia, giáo dục nhân quyền cũng đã trở thành một phần trong chương trình giáo dục của nhiều nước, tuy có sự khác nhau về phạm vi, mức độ và cách thức tổ chức hoạt động.


Trên thực tế, giáo dục nhân quyền, xét ở góc độ nhất định, từ lâu đã được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, dưới hình thức  giáo dục đạo đức công dân. Kể từ khi Đổi mới đến nay, hoạt động giáo dục nhân quyền đã được tăng cường thêm một bước, xét cả về nội dung và phạm vi tổ chức. Mặc dù vậy, tương tự như nghiên cứu khoa học về nhân quyền, nhìn chung hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam vẫn còn có nhiều tồn tại, hạn chế.

Bài viết này cố gắng đưa ra một cái nhìn khái quát về hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam hiện nay. Trong bài viết này, các tác giả không chỉ tìm hiểu chương trình giảng dạy về quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân mà còn khảo sát các hoạt động giáo dục về quyền bên ngoài hệ thống này nhằm đưa ra những nhận định, đánh giá bước đầu nhưng tổng thể về tình hình giáo dục nhân quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trước khi đi vào các nội dung đã nêu, bài viết sẽ đề cập vắn tắt đến mối quan tâm và những hoạt động của Liên hợp quốc về giáo dục nhân quyền.

1. Liên hợp quốc và vấn đề giáo dục nhân quyền

Là tổ chức quốc tế tiên phong trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, Liên hợp quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục nhân quyền, xem đó như là một biện pháp cốt yếu và một chiến lược hiệu quả để ngăn chặn các vi phạm nhân quyền cũng như để xây dựng các xã hội bình đẳng, tự do và hòa bình[1] . Để phổ biến và vận động cho hoạt động giáo dục nhân quyền trên toàn thế giới, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua một Nghị quyết số 48/127 ngày 20/12/1993 (A/RES/48/127) quy định lấy giai đoạn 1995-2004 là Thập kỷ giáo dục nhân quyền của Liên hợp quốc (the United Nations Decade for Human Rights Education)[2]. Tiếp theo đó, từ 1994 đến 2003, Đại hội đồng Liên hợp quốc còn thông qua một loạt nghị quyết khác đề cập đến những vấn đề cụ thể trong việc triển khai thực hiện Thập kỷ Giáo dục nhân quyền, bao gồm các Nghị quyết A/RES/49/184, A/RES/50/173, A/RES/50/177, A/RES/51/104, A/RES/52/127, A/RES/53/153, A/RES/54/161, A/RES/55/94, A/RES/56/167, A/RES/57/212[3].

Trên thực tế, tầm quan trọng và yêu cầu tổ chức, thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền đã được đề cập từ lâu trong nhiều văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, cụ thể là trong Điều 26 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Điều 13 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Điều 28 Công ước về quyền trẻ em; và đặc biệt là trong các đoạn 78-82 Tuyên bố Viên và Chương trình hành động được thông qua tại Hội nghị toàn thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993. Từ nội dung các quy định này, có thể hiểu giáo dục nhân quyền là những hoạt động giảng dạy, tập huấn và phổ biến thông tin về quyền con người, nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền trong đó hướng tới: (i) Tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người; (ii) Phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức về nhân phẩm của con người; (iii) Thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ; (iv) Tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia một cách hiệu quả vào các hoạt động của xã hội,(v) Hỗ trợ các hoạt động của Liên hợp quốc về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế [4].

Để thực hiện thành công Thập kỷ Giáo dục nhân quyền, các nghị quyết kể trên của Đại hội đồng Liên hợp quốc đồng thời cũng khuyến nghị các quốc gia thành viên xây dựng và thực hiện các kế hoạch quốc gia (national plan) về giáo dục nhân quyền. Kế hoạch quốc gia này bao gồm nhiều hoạt động, trong đó có việc thành lập hoặc tăng cường các cơ sở, tổ chức và các nguồn lực cho hoạt động giáo dục nhân quyền ở quốc gia[5].

Hưởng ứng Thập kỷ Giáo dục Nhân quyền của Liên hợp quốc và để thi hành các nghị quyết có liên quan của tổ chức này, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch quốc gia về giáo dục nhân quyền với những sáng kiến phong phú[6]. Để hỗ trợ cho các quốc gia trong việc tổ chức và thực hiện các hoạt động giáo dục nhân quyền, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc đã biên soạn nhiều tài liệu về vấn đề này và cung cấp miễn phí cho các chủ thể có nhu cầu trên trang web của Văn phòng (xem Phụ lục).  

2.    Giáo dục nhân quyền trong các nhà trường phổ thông ở Việt Nam

Mặc dù nhân quyền không phải là một phạm trù dễ hiểu, nhưng việc giáo dục nhân quyền với mức độ nhất định và bằng các phương pháp phù hợp trong các nhà trường phổ thông là cần thiết và có thể thực hiện được. Thực tế trên thế giới đã chứng minh tính hữu ích và hiệu quả của việc hình thành nhận thức và thái độ tôn trọng quyền con người của các cá nhân ngay từ khi còn trẻ thông qua việc triển khai giáo dục nhân quyền cho học sinh phổ thông.

Xuất phát từ thực tế kể trên, nhiều quốc gia trên thế giới đã có chương trình giáo dục về quyền con người dành cho cho trẻ em từ lứa tuổi rất nhỏ[7]. Về vấn đề này, như đã đề cập, xét ở góc độ nhất định, giáo dục nhân quyền cũng đã được thực hiện từ lâu trong các nhà trường phổ thông ở Việt Nam, chủ yếu thông qua môn học đạo đức công dân. Tuy nhiên, kể từ khi Đổi mới đến nay, hoạt động giáo dục nhân quyền trong các nhà trường phổ thông ở Việt Nam đã được tăng cường thêm một bước mới, với việc lồng ghép nhiều nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ thể của luật nhân quyền quốc tế vào chương trình giáo dục của các nhà trường, đặc biệt là trong môn học Giáo dục công dân (thực hiện ở các cấp phổ thông từ I, II đến III). Cụ thể như sau:

Đối với học sinh tiểu học (cấp I), môn học Đạo đức đã bao gồm các bài học nhằm hướng dẫn các em tôn trọng người khác như: tôn trọng khách nước ngoài, tôn trọng thư từ, tài sản của người khác (Lớp 3); tôn trọng phụ nữ (Lớp 5)[8]…Trong các bài học này, tuy các khái niệm cụ thể về quyền chưa được sử dụng (chẳng hạn khi nói về tôn trọng phụ nữ thì mới nêu các lý do về đạo đức, xã hội chứ chưa đề cập đền "quyền của phụ nữ") và các kiến thức, thông tin chuyển tải mới ở mức độ đơn giản, nhưng rõ ràng thông qua các bài học kể trên, học sinh có thể hiểu được một số nguyên tắc cơ bản của quyền con người và nghĩa vụ tôn trọng các quyền con người của các nhóm đối tượng có liên quan.

Ở cấp trung học cơ sở phổ thông (cấp II), số lượng bài học về quyền con người trong chương trình học đã nhiều hơn, các bài học chứa đựng những kiến thức rộng và sâu hơn về quyền con người. Mặc dù vậy, tương tự như ở cấp tiểu học, các bài học về quyền con người ở cấp trung học cơ sở vẫn được thiết kế thông qua những bối cảnh sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với nhận thức xã hội của học sinh theo từng độ tuổi, để giúp các em có thể hiểu được các khái niệm và phạm trù đôi khi khá phức tạp trên lĩnh vực này. Cụ thể, các bài học về quyền con người trong môn học Giáo dục công dân của học sinh phổ thông cấp II được thiết kế như sau[9]:

Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 6 (tổng số 21 bài) có các bài:

-                         Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (bài 12)

-                         Công dân nước CHXHCN Việt Nam (bài 13)

-                         Quyền và nghĩa vụ học tập (bài 15)

-                         Quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm (bài 16)

-                         Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (bài 17)

-                         Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (bài 18)

Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 7 (tổng số 18 bài) có các bài:

-                         Quyền được chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam (bài 13)

-                         Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo (bài 16)

-                         Nhà nước CHXHCN Việt Nam (bài 17)

Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 8 (tổng số 21 bài) có các bài:

-                         Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình (bài 12)

-                         Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác (bài 16)

-                         Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân (bài 18)

-                         Quyền tự do ngôn luận (bài 19)

-                         Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (bài 20)

-                         Pháp luật nước CHXHCN Việt Nam (bài 21)

Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 9 (tổng số 18 bài) có các bài:

-                         Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân (bài 12)

-                         Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế (bài 13)

-                         Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân (bài 14)

-                         Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân (bài 16)

Trong chương trình giáp dục cấp III, môn học Giáo dục công dân  đã mang tính lý thuyết và tính khái quát khá cao, nhiều nội dung tương đối trừu tượng với lứa tuổi thiếu niên. Chương trình Lớp 10 có đề cập đến một số nghĩa vụ của công dân nhưng chủ yếu từ khía cạnh đạo đức (đối với cộng đồng, với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc), Lớp 11 có các bài: nhà nước xã hội chủ nghĩa (bài 9), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (bài 10). Các kiến thức về quyền con người tập trung nhiều hơn ở chương trình giáo dục công dân Lớp 12, theo đó học sinh được tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến quyền công dân như bài Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự (trong bài Luật dân sự), các quyền trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể như đất đai, thuế, hành chính…[10]

Bên cạnh môn học Giáo dục công dân, một số tác giả cho rằng trong các môn học Sinh học, Địa lý, Lịch sử cũng cần đưa vào những nội dung về quyền con người[11], tuy nhiên thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc lồng ghép các nội dung về quyền trong các môn học khó thực hiện một cách cụ thể và mang tính hệ thống như trong môn Giáo dục công dân.

Từ những thông tin kể trên, có thể thấy dung lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giáo dục phổ thông ở Việt Nam là khá lớn so với mặt bằng chung trên thế giới. Một điểm tích cực nữa là việc thiết kế các bài học về quyền trong chương trình giáo dục công dân ở Việt Nam đã tính đến trình độ nhận thức và tâm lý của học sinh ở từng độ tuổi. Những điều này cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam với hoạt động giáo dục về quyền con người, cũng như cho thấy triển vọng tốt đẹp của hoạt động giáo dục về quyền con người ở các nhà trường phổ thông ở Việt Nam.

Mặc dù vậy, một trong các hạn chế quan trọng của hoạt động giáo dục nhân quyền trong các nhà trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay là hiểu biết và phương pháp giảng dạy về quyền con người của giáo viên. Về khía cạnh hiểu biết, hầu hết giáo viên môn học Giáo dục công dân ở các cấp học phổ thông ở Việt Nam đều chưa được đào tạo hay tập huấn về quyền con người; tình trạng đó chắn chắn có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy các bài học về nhân quyền. Về khía cạnh phương pháp, hơn bất kỳ môn khoa học xã hội nào khác, giáo dục nhân quyền đòi hỏi giáo viên cần áp dụng phương pháp giảng dạy đặc thù (phương pháp giáo dục cùng tham gia – participatory teaching methods), trong khi các nhà trường phổ thông ở Việt Nam hiện vẫn áp dụng phổ biến phương pháp giảng dạy truyền thống (còn gọi là phương pháp giáo dục áp đặt – banking education). Việc sử dụng phương pháp giáo dục truyền thống làm giảm một cách đáng kể hiệu quả của hoạt đông giáo dục nói chung, hoạt động giáo dục nhân quyền nói riêng vì phương pháp giảng dạy truyền thống thông thường biến các tiết học về quyền con người thành các buổi thuyết giảng một chiều, khô cứng về đạo đức và luân lý.

Một vấn đề tồn tại nữa liên quan đến tài liệu và phương tiện học tập. Hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục nhân quyền nói riêng muốn đạt được kết quả cao đòi hỏi người giảng viên phải được cung cấp các tài liệu tham khảo và công cụ giảng dạy thích hợp. Xét giáo dục nhân quyền, ở nhiều nước trên thế giới, ngoài giáo trình, giảng viên được cung cấp  thêm các sách chuyên khảo, sách hướng dẫn về giảng dạy quyền con người và các loại giáo cụ đặc thù như bộ tranh tìm hiểu về các quyền, băng đĩa phim hoạt hình về quyền…Các yếu tố này hiện chưa có điều kiện đáp ứng trong bối cảnh của Việt Nam.  

3.    Giáo dục nhân quyền trong các trường đại học ở Việt Nam

Điểm khác cơ bản giữa giáo dục nhân quyền ở cấp độ giáo dục đại học và cấp độ giáo dục phổ thông là ở mục tiêu của chúng. Nếu như giáo dục nhân quyền ở cấp độ phổ thông nhằm hình thành nhân cách, nhận thức và thái độ hành xử đúng đắn cho các công dân trẻ trong các vấn đề về quyền con người, cả ở hiện tại và trong tương lai, thì mục tiêu của giáo dục nhân quyền ở cấp độ đại học là để đào tạo các chuyên gia trên lĩnh vực này.

Sự khác biệt về mục tiêu dẫn đến sự khác biệt về nội dung và phương pháp tổ chức. Ở hầu hết quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, giáo dục nhân quyền không hiện diện trong chương trình giảng dạy của tất cả các trường đại học; tuy nhiên, một khi đã được đưa vào một trường đại học nào đó, nội dung của giáo dục nhân quyền có tính chất rất chuyên sâu.

 Tương tự như ở nhiều nước khác trên thế giới, các nội dung về quyền con người hiện chủ yếu được nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học chuyên ngành luật, khoa học chính trị, quan hệ quốc tế… của Việt Nam, cụ thể như sau:

 3.1.Đối với sinh viên ngành Luật

Hiện nay ở Việt Nam có 9 cơ sở đào tạo cử nhân luật, trong đó 3 cơ sở đào tạo lớn nhất là Đại học Luật Hà Nội (thuộc Bộ Tư pháp, có khoảng 10.000 sinh viên theo học ở các hệ đào tạo khác nhau), Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (trực thuộc Bộ Giáo dục, có khoảng 9.000 sinh viên), Khoa Luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội (có khoảng 3.200 sinh viên). Sáu cơ sở đào tạo khác bao gồm: Khoa Kinh tế - Luật trực thuộc Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Khoa Luật của Đại học Khoa học xã hội nhân văn thuộc Đại học Huế, Khoa Luật thuộc Đại học Cần Thơ, Khoa Luật thuộc Đại học Đà Lạt, Khoa Luật Kinh tế thuộc Đại học Kinh tế quốc dân (Hà Nội) và Khoa Luật kinh tế thuộc Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh. Trong số này, ngoại trừ hai cơ sở là Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh và Khoa Luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội có một môn học riêng về quyền con người, ở các cơ sở khác, sinh viên hiện mới được nghiên cứu các nội dung về quyền con người lồng ghép trong chương trình học của một số ngành luật có liên quan, mà chủ yếu là Luật quốc tế, Luật hiến pháp Việt Nam, Luật hiến pháp nước ngoài…  

Về dung lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giảng dạy của các cơ sở đào tạo kể trên, có thể khái quát như sau:

Với những cơ sở chưa hình thành môn học riêng về quyền con người

Giống như trong giáo trình công pháp quốc tế của Liên Xô trước đây và của các nước phát triển hiện nay,[12] bảo vệ quyền con người được phân tích như một nguyên tắc của công pháp quốc tế trong đa số giáo trình về luật quốc tế của các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam, trừ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội.[13] Việc sắp xếp nội dung về quyền con người trong giáo trình cũng rất khác nhau. Ví dụ, trong khi luật quốc tế về quyền con người là một chương trong Giáo trình Luật quốc tế của Đại học Luật Hà Nội, nó chỉ là một mục trong một bài ở Giáo trình Luật quốc tế của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội... Tuy nhiên, nhìn chung, vấn đề luật nhân quyền quốc tế mới chỉ được đề cập ở mức độ rất khái quát trong tất cả các giáo trình luật quốc tế của các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam.

 Trong các môn Luật hiến pháp Việt Nam, Luật hiến pháp nước ngoài của các cơ sở đào tạo kể trên, các quyền của công dân được nghiên cứu như một chế định của hiến pháp. Mặc dù về dung lượng có phần nhiều hơn so với trong giáo trình Luật quốc tế, song về cách tiếp cận, các môn học này đều dừng lại việc xem xét các quyền công dân của một quốc gia, gắn với một nhà nước cụ thể, không đề cập đến tính phổ quát của các quyền con người.

Ngoài các môn học kể trên, ở các cơ sở đào tạo luật, vấn đề quyền con người còn được đề cập đến thông qua các nội dung về quyền công dân ở trong một số ngành luật khác, cụ thể như trong luật dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản, tự do hợp đồng…),  luật kinh doanh, luật thương mại (quyền tự do kinh doanh, bình đẳng trong hoạt động kinh doanh…),  luật hành chính (quan hệ giữa nhà nước và công dân…), luật hình sự và tố tụng hình sự (các quyền tố tụng, đặc biệt là các quyền của bị can, bị cáo…)

Với những cơ sở đã và đang hình thành môn học riêng về quyền con người

 Tại Khoa Luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, hai môn học “Lý luận về nhân quyền” và “Bảo vệ quyền con người bằng hệ thống tư pháp hình sự” bắt đầu được đưa vào giảng dạy từ tháng 1 năm 2008 cho sinh viên năm thứ tư chuyên ngành lý luận-hiến pháp và chuyên ngành tư pháp hình sự với thời lượng là 30 tiết/môn. Đề cương môn học “Lý luận về nhân quyền” ở cơ sở này gồm các nội dung như sau:

Phần một: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

I.                     Nhập môn

 II. Khái quát chung về quyền con người

Phần hai: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜIi

III. Khái quát pháp luật quốc tế về quyền con người

IV. Bộ luật nhân quyền quốc tế và các văn kiện quốc tế cơ bản khác về quyền con người

V. Các cơ chế quốc tế và khu vực thúc đẩy, bảo vệ quyền con người

Phần ba: QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

VI. Khái quát về quyền con người ở Việt Nam

VII. Pháp luật Việt Nam về quyền con người

VIII. Bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam

IX. Nghĩa vụ quốc gia của Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người. [14]

Trên cơ sở đề cương môn học trên đây, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội đang có kế hoạch biên soạn Giáo trình Lý luận về nhân quyền.

3.2.Đối với sinh viên một số ngành khác

Ngoài sinh viên ngành luật, một số trường đại học khác có học môn “Luật quốc tế” là Học viện quan hệ quốc tế, Học viện an ninh, Học viện cảnh sát... Ngoài ra, ở những cơ sở đào tạo này, vấn đề quyền con người còn được giới thiệu khái quát bằng cách lồng ghép vào nội dung của một số môn học khác có liên quan, cụ thể như các môn học “Nhà nước và pháp luật đại cương” hoặc “Pháp luật đại cương”…Tuy nhiên, nhìn chung dung lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giảng dạy ở các cơ sở này còn ở mức độ rất hạn chế, mặc dù kiến thức về quyền con người trên thực tế rất hữu ích trong hoạt động của học viên một số trường sau khi tốt nghiệp (ví dụ như học viên của Học viện an ninh, Học viện cảnh sát...)

Duy nhất tại Học viện chính trị- hành chính quốc gia Hồ Chí Minh hiện có một môn học riêng (môn học “Lý luận về quyền con người”) dành cho chương trình đào tạo cử nhân chính trị. Giáo trình của môn học này đã được tái bản một vài lần, hiện tại bao gồm các nội dung sau:

Chương I. Lý luận về quyền con người - đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Chương II. Quyền con người trong lịch sử nhân loại

Chương III. Quyền con người trong lịch sử Việt Nam

Chương IV. Quan điểm Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người

Chương V. Pháp luật quốc tế về quyền con người

Chương VI. Quan điểm và chính sách cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người. [15]

Chương trình trên đây, đúng với tên gọi của nó, chủ yếu nhằm vào các vấn đề  lý luận về quyền; các nội dung liên quan đến luật quốc tế và quốc gia về quyền con người chiếm tỷ lệ nhỏ, kiến thức và thông tin về  các nội dung này mới ở mức độ khái quát, thiếu tính chất chuyên sâu.

Từ những thông tin trên, có thể nhận xét rằng giáo dục quyền con người đã có tiền đề khá tốt trong giáo dục đại học ở Việt Nam, bởi lẽ vấn đề nhân quyền đã được đưa vào chương trình giảng dạy của các trường đại học chuyên ngành luật, chính trị…tương tự như ở nhiều nước khác trên thế giới.

Mặc dù vậy, như đã đề cập, dung lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giảng dạy của một số trường đại học còn quá ít, chưa tương xứng với nhu cầu của đối tượng đào tạo; kết cấu môn học còn có nhiều điểm bất hợp lý. Thêm vào đó, có thể thấy những hạn chế trong hoạt động giáo dục nhân quyền ở  các nhà trường phổ thông lặp lại ở cấp độ giáo dục đại học, đó là các vấn đề liên quan đến trình độ của đội ngũ giảng viên, phương pháp giảng dạy và tài liệu tham khảo, tuy những tồn tại đó ít nhiều có những điểm khác nhau. Đơn cử về vấn đề tài liệu, trong số các cơ sở đào tạo đại học có giảng dạy về quyền con người, hiện chỉ có vài cơ sở có một số lượng tài liệu tham khảo hạn chế về lĩnh vực này. Thư viện duy nhất về quyền con người ở Việt Nam hiện thuộc quyền quản lý của Viện nghiên cứu quyền con người của Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và mang bản chất là thư viện nội bộ, không phải là thư viện ‘mở’, nên việc tiếp cận để tham khảo tài liệu không thuận tiện. Vấn đề tư liệu, do đó có thể coi là trở ngại lớn nhất không chỉ với hoạt động nghiên cứu, mà còn với hoạt động giảng dạy về quyền con người ở các trường đại học của Việt Nam hiện nay, bởi lẽ khác với giáo dục phổ thông, ở cấp giáo dục đại học, tài liệu tham khảo không chỉ cần thiết với giáo viên mà còn không thể thiếu với học viên.

4.    Hoạt động giáo dục nhân quyền bên ngoài hệ thống nhà trường ở Việt Nam

Như đã đề cập ở mục 1, giáo dục nhân quyền không chỉ bao gồm các hoạt động giảng dạy ở nhà trường mà còn bao gồm các hoạt động tập huấn và phổ biến thông tin ở bên ngoài hệ thống giáo dục quốc gia. Hoạt động tập huấn, tuyên truyền về quyền con người ở bên ngoài dù không mang tính hệ thống và chính quy như trong các nhà trường nhưng cũng góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức về quyền con người của người dân và nhiều dạng chủ thể trong xã hội mà không thể hoặc không còn cơ hội học tập ở hệ thống nhà trường. Trong số các đối tượng này có những nhóm rất quan trọng như quan chức nhà nước, cán bộ xã hội, nhân viên của các tổ chức quốc tế, thậm chí các nghị sĩ...Vì vậy, ở  nhiều nước trên thế giới, giáo dục nhân quyền ngoài hệ thống nhà trường rất được chú trọng phát triển đồng thời và đan xen với hoạt động giáo dục nhân quyền trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế kể trên trong giáo dục nhân quyền. Trong khoảng hai thập kỷ qua, hoạt động giáo dục nhân quyền ở ngoài hệ thống nhà trường đã được thực hiện ở Việt Nam, bởi nhiều chủ thể như các cơ quan giáo dục về quyền, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhằm vào nhiều dạng đối tượng như các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, cán bộ an ninh, cảnh sát, cán bộ quản lý trại giam, người làm công tác xã hội, cán bộ của các đoàn thể xã hội, giáo viên, thành viên của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương…Nội dung tập huấn, tuyên truyền khá đa dạng, bao gồm các vấn đề lý luận về quyền con người nói chung, các tiêu chuẩn quốc tế và quy định quốc gia về quyền con người..., tuy nhiên, các nội dung liên quan đến quyền con người của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người thiểu số, người sống chung với HIV/AIDS…) chiếm dung lượng lớn. Các hoạt động tập huấn, tuyên truyền về quyền con người theo kênh này thường được thực hiện trong khuôn khổ các dự án hợp tác giữa một số bộ, ngành, tổ chức xã hội, cơ sở đào tạo ở Việt Nam với các nhà tài trợ nước ngoài (bao gồm các tổ chức quốc tế, các cơ quan viện trợ quốc gia, các đại sứ quán nước ngoài…).

Thông thường, hoạt động giáo dục quyền con người ở ngoài hệ thống nhà trường được tổ chức theo từng chủ đề, bởi các chủ thể có liên quan. Cụ thể, các cơ quan nhà nước thường tập huấn nâng cao kiến thức về quyền con người liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của ngành cho các cán bộ trong hệ thống ngành dọc của mình (ví dụ, Tòa án nhân dân tối cao tập huấn cho các thẩm phán về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tập huấn cho các kiểm sát viên về bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung, Bộ Công an tập huấn cho các cán bộ công an về các tiêu chuẩn về quyền con người của các quan chức thực thi pháp luật…). Tương tự, các tổ chức xã hội  cũng hướng vào việc nâng cao kiến thức về quyền con người có liên quan cho các thành viên của tổ chức mình (Hội LHPN Việt Nam tập trung vào các nội dung về quyền phụ nữ, bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình cho phụ nữ, Tổng LĐLĐ Việt Nam hướng vào phổ biến kiến thức về các quyền về lao động, việc làm cho người lao động; Hội Luật gia Việt Nam tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức về quyền con người cho các luật gia…).

 Nhìn chung, hoạt động giáo dục nhân quyền bên ngoài hệ thống nhà trường ở Việt Nam sôi động, phong phú và ở mức độ nhất định, mang tính ‘chuyên nghiệp’ hơn so với hoạt động giáo dục nhân quyền trong hệ thống nhà trường. Đó là bởi khác với giáo dục nhân quyền trong hệ thống nhà trường, hoạt động giáo dục nhân quyền bên ngoài có sự tham gia của rất nhiều chủ thể, hướng vào rất nhiều vấn đề và khía cạnh của quyền con người, nội dung giáo dục gắn liền với thực tế và mang tính ‘ứng dụng’ hơn. Tính chuyên nghiệp thể hiện ở chỗ phương pháp giảng dạy cùng tham gia đã được sử dụng phổ biến trong giáo dục nhân quyền ngoài nhà trường, đội ngũ giảng viên được ‘cọ xát’ và học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia nước ngoài nên năng động và ít ‘giáo điều’, cứng nhắc như giáo viên, giảng viên ở các trường học, trường đại học; tài liệu bổ trợ và phương tiện trợ giúp giảng dạy hiện đại hơn do được cung cấp bởi các nhà tài trợ. Nói cách khác, tuy vẫn còn những hạn chế nhất định, hoạt động giáo dục nhân quyền ở ngoài xã hội ở Việt Nam có sự chuyển biến theo hướng hiện đại hóa nhanh hơn so với giáo dục nhân quyền trong hệ thống nhà trường.

5.    Một số nhận xét, kết luận chung

Tương tự như các quốc gia khác trên thế giới, giáo dục nhân quyền đã và đang thực hiện ở cả trong và ngoài hệ thống nhà trường ở Việt Nam. Đây là một tiền đề quan trọng cho việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian tới.

 Tuy nhiên, so sánh với mặt bằng chung trên thế giới, phạm vi và trình độ giáo dục nhân quyền ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp. Mặc dù đã có những tiến triển nhan chóng trong hai thập kỷ qua song giáo dục nhân quyền ở Việt Nam vẫn chưa bắt kịp với xu hướng phát triển chung trên thế giới và chưa đáp ứng nhu cầu giáo dục nhân quyền ở trong nước. Những trở ngại chính trong giáo dục nhân quyền ở Việt Nam hiện nay liên quan đến các vấn đề như trình độ hạn chế và sự thiếu hụt giáo viên, giảng viên; phương pháp giảng dạy lạc hậu; sự thiếu hụt các nguồn tài liệu tham khảo...Nguyên nhân sâu xa của những hạn chế này có lẽ là từ nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của giáo dục nhân quyền của các nhà hoạch định chính sách cũng như của cộng đồng.

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, các vấn đề về nguồn nhân, vật lực, kiến thức, kinh nghiệm và tài liệu là quan trọng nhưng nhận thức về vai trò và ý nghĩa của giáo dục nhân quyền của các nhà hoạch định chính sách và của toàn thể công chúng trong xã hội mới là yếu tố có tính chất quyết định đến việc thúc đẩy hoạt động trên lĩnh vực này. Một khi có nhận thức phù hợp và quyết tâm chính trị cao trong việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền, các vấn đề còn lại sẽ được giải quyết một cách tốt đẹp và nhanh chóng. Bởi vậy, để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam, trước hết, các nhà hoạch định chính sách của quốc gia cần nhận thức rõ hơn về vai trò của giáo dục nhân quyền, các yêu cầu và ý nghĩa của hoạt động này với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa.

 

 Bài viết tháng 8/ 2008: VCG & LKT (Hội thảo "Kết nối Nghiên cứu về Quyền con người")


Ảnh: Một lớp học Việt Nam (Asianews.it)

 

 



[1] Nghị quyết A/52/469/Add.1 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, đoạn 12. Xem trong http://www.unhchr.ch/huridocda/huridoca.nsf/(Symbol)/A.RES.48.127.En?OpenDocument.

[2] General Assembly resolution 48/127 of 20 December 1993. Xem trong  http://www.unhchr.ch/huridocda/huridoca.nsf/(Symbol)/A.RES.48.127.En?OpenDocument

[3] http://www.unhchr.ch/education/resga.htm.

[4] Nghị quyết A/52/469/Add.1 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, đoạn 11. Xem trong http://www.unhchr.ch/huridocda/huridoca.nsf/(Symbol)/A.RES.48.127.En?OpenDocument.

[5] Nghị quyết A/52/469/Add.1 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, đoạn 14. Xem trong http://www.unhchr.ch/huridocda/huridoca.nsf/(Symbol)/A.RES.48.127.En?OpenDocument.

[6] Về các sang kiến quốc gia trong giáo dục nhân quyền, xem bản tổng kết của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc tại http://www.unhchr.ch/html/menu6/1/initiatives.htm.

[7] Xem các sáng kiến quốc gia về giáo dục nhân quyền tại http://www.unhchr.ch/html/menu6/1/initiatives.htm.

[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo,  Vở bài tập Đạo đức 3    Đạo đức 5, NXB Giáo dục, 2007.

[9] Xem Bộ Giáo dục và Đào tạo,  Giáo dục công dân 6, Giáo dục công dân 7, Giáo dục công dân 8, Giáo dục công dân 9, NXB Giáo dục, 2007.

[10] Bộ Giáo dục và Đào tạo,  Giáo dục công dân 10, Giáo dục công dân 11   Giáo dục công dân 12, NXB Giáo dục, 2007

[11] Giáo án về quyền con người (Dùng cho các trường ở khu vực Đông – Nam Á, sách dịch), NXB Đại học sư phạm, 2005, tr. 39.

[12] International Law, Moscow, 1982; Antonio Casessese, International Law, Second Edition, Oxford University Press, 2005.

[13] Giáo trình Luật quốc tế, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Công an Nhân dân, 2006.

[14]  Đề cương tín chỉ môn học Lý luận về nhân quyền, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.

[15] Giáo trình Lý luận về quyền con người (dùng cho hệ cử nhân), Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Hà Nội, 2002.

 


Các tin khác: