B - CÁC CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN KHU VỰC
Bên cạnh cơ chế có tính chất toàn cầu của Liên hợp quốc và một số tổ chức liên chính phủ khác, một số tổ chức khu vực cũng ban hành các văn kiện và thành lập các cơ chế để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong phạm vi khu vực đó.

      

         Ở mức độ nhất định, một số cơ chế khu vực (ví dụ như ở châu Âu) còn tỏ ra chặt chẽ, hiệu quả hơn so với cơ chế của Liên hợp quốc. Nhìn chung, so với cơ chế của Liên hợp quốc, các cơ chế quyền con người khu vực có ưu điểm là dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và thực hiện, do các quốc gia trong khu vực thường có nhiều điểm chung về kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử. Thêm vào đó, các cơ chế khu vực, do phạm vi hẹp hơn về địa lý, tỏ ra dễ tiếp cận hơn với công chúng so với cơ chế toàn cầu của Liên hợp quốc.

         Mặc dù trái đất có 4 châu lục chính, song hiện tại chỉ có 3 châu lục là châu Âu, châu Mỹ và châu Phi đã thiết lập được cơ chế khu vực về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Dưới đây khái quát những đặc trưng cơ bản của cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở các châu lục này.




Ảnh: Tòa án Nhân quyền Châu Âu (tại Strabourg, Đức)

 
1. Cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Châu Âu

   Châu Âu là khu vực đi đầu trên thế giới về việc phát triển cơ chế bảo vệ quyền con người khu vực. Hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu Âu có nòng cốt là Công ước châu Âu về Bảo vệ Quyền con người và Tự do cơ bản (The European Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms) được Hội đồng châu Âu thông qua từ ngày 4/11/1950, có hiệu lực từ tháng 9/1953. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền và tự do cơ bản, Công ước này còn quy định cơ chế giám sát thực hiện gồm ba cơ quan là:  Ủy ban Quyền con người trực thuộc Hội đồng châu Âu (được thành lập năm 1954 nhưng đã kết thúc hoạt động từ năm 1990), Tòa án Quyền con người châu Âu (1959) và Ủy ban các Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu (gồm Ngoại trưởng hoặc đại diện của các quốc gia thành viên). Công ước cũng quy định hai loại khiếu nại (applications) về những vi phạm quyền con người có thể được tiếp nhận và xem xét là khiếu nại của các cá nhân và của các quốc gia đối với nhau.

   Mọi quốc gia thành viên của Hội đồng châu Âu đều phải tham gia Công ước Quyền con người châu Âu. Đây là một trong những điều kiện để trở thành thành viên Hội đồng châu Âu. Công ước được bổ sung bằng hơn 10 Nghị định thư, trong đó Nghị định thư số 11 (có hiệu lực từ năm 1998) quy định việc thành lập Tòa án Quyền con người châu Âu thường trực. Tòa án có số lượng thẩm phán tương đương số quốc gia thành viên, các thẩm phán của tòa án được bầu ra bởi Nghị viện của Hội đồng châu Âu theo nhiệm kỳ 6 năm, hoạt động với tư cách độc lập chứ không phải là đại diện của quốc gia. Tòa án được chia thành 5 Tòa thành viên (Sections), được lãnh đạo bởi một chánh án (President), 5 chánh tòa (Section Presidents, hai trong số này đồng thời là Phó Chánh án - Vice-President). Mỗi Tòa thành viên sẽ chọn ra một Hội đồng (Chamber), bao gồm Chánh tòa và sáu thẩm phán luân phiên. Tòa cũng có một Đại Hội đồng (Grand Chamber) gồm 17 thẩm phán, bao gồm Chánh án, các Phó Chánh án và các Chánh tòa.

   Các khiếu kiện về quyền con người chống lại các quốc gia thành viên được gửi  đến Tòa án Quyền con người châu Âu (tại Strasbourg, Pháp) sẽ được phân loại và giao cho các Tòa thành viên, sau đó được xem xét bởi một Ủy ban gồm 3 thẩm phán. Ủy ban này có thể ra quyết định thụ lý hay không thụ lý vụ việc. Nếu được Ủy ban chấp thuận, khiếu nại được xem xét bởi một Hội đồng. Các vụ việc quan trọng có thể được chuyển tới Đại Hội đồng. Trong vòng 10 năm hoạt động (1998-2008), Tòa án quyền con người châu Âu đã thụ lý và ra phán quyết về rất nhiều vụ việc. Số đơn khiếu nại gửi đến Tòa án ngày càng tăng. Riêng trong năm 2008, Tòa án nhận 49.850 đơn so với năm 2007 là 41.650 đơn.

Ngoài Tòa án Quyền con người, châu Âu còn có một số cơ quan bảo vệ quyền con người khác như Ủy ban chống tra tấn (CPT).


 




Ảnh: các thẩm phán Tòa án Nhân quyền Liên Mỹ;
Trụ sở Tòa án (tại Costa Rica, Trung Mỹ)




2. Cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Châu Mỹ

Cơ chế quyền con người châu Mỹ cũng có lịch sử tương đối sớm. Ngay từ năm 1948, Tuyên ngôn châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của con người (American Declarattion of the Rights and Duties of Man) đã được thông qua bởi Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (Organization of American States – OAS),  trước Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 6 tháng. Tiếp theo đó, năm 1959, Ủy ban Quyền con người châu Mỹ (Inter-American Commission on Human Rights - IACHR) được thành lập. Đến năm 1969, các nguyên tắc nền tảng trong Tuyên ngôn châu Mỹ về quyền và trách nhiệm của con người được tái khẳng định trong Công ước châu Mỹ về quyền con người (American Convention on Human Rights). Công ước này xác định các quyền con người mà các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ và đảm bảo, đồng thời quy định việc thiết lập Tòa án Quyền con người châu Mỹ (Inter-American Court of Human Rights). Công ước này hiện có giá trị bắt buộc đối với 24 trong số 35 quốc gia thành viên của OAS[1].

 Tòa án Quyền con người châu Mỹ cùng với Ủy ban Quyền con người châu Mỹ (Inter-American Commission on Human Rights - IACHR) tạo nên bộ máy cơ quan bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở châu lục này. Trước hết nói về Ủy ban Quyền con người châu Mỹ, cơ quan này có chức năng thúc đẩy việc tuân thủ và bảo vệ quyền con người ở châu Mỹ. Ủy ban bao gồm 7 ủy viên được bầu chọn bởi Đại Hội đồng OAS cho nhiệm kỳ 4 năm, hoạt động với tư cách cá nhân. Ủy ban có một Chủ tịch và hai Phó Chủ tịch.

Tòa án Quyền con người châu Mỹ  bao gồm 7 thẩm phán là công dân các quốc gia thành viên OAS, được bầu theo nhiệm kỳ 6 năm bởi Đại hội đồng OAS. Tòa có hai chức năng cơ bản là xét xử và tư vấn. Về chức năng xét xử, các vụ việc được chuyển đến Tòa án bởi Ủy ban Quyền con người châu Mỹ hoặc bởi một quốc gia thành viên OAS. Đây là điểm khác với cơ chế quyền con người của châu Âu, nơi mà các cá nhân  có quyền gửi thẳng các khiếu nại đến Tòa án Quyền con người khu vực. Khi các cá nhân thấy rằng quyền của mình bị vi phạm thì có thể gửi khiếu nại đến Ủy ban Quyền con người châu Mỹ để xem xét khả năng thụ lý. Nếu xét thấy có thể thụ lý, Ủy ban sẽ gửi cho quốc gia liên quan một số khuyến nghị. Chỉ khi quốc gia liên quan không tuân theo các khuyến nghị này, hoặc nếu Ủy ban thấy rằng vụ việc có ý nghĩa quan trọng, thì sẽ chuyển vụ việc lên Tòa án châu Mỹ về quyền con người để giải quyết. 

Thủ tục tại Tòa án châu Mỹ về quyền con người được chia thành thủ tục viết và thủ tục miệng. Trong giai đoạn thủ tục viết, đơn khiếu kiện được nộp cần bao gồm các dữ kiện liên quan, các nạn nhân, nhân chứng có thể mời có mặt tài phiên tòa, số chi phí đòi bồi thường. Nếu vụ việc được thụ lý, Tòa sẽ gửi thông báo đến quốc gia hoặc Ủy ban quyền con người của châu lục (tùy chủ thể nào nộp đơn kiện), nạn nhân và các bên liên quan. Trong vòng 30 ngày tiếp theo thông báo, bất kỳ bên nào cũng có quyền nộp đơn phản đối. Tòa án có thể họp để xem xét đơn phản đối này. Trong vòng 60 ngày tiếp theo thông báo, bên bị đơn phải cung cấp phản hồi đơn kiện bằng văn bản nêu rõ có đồng ý hay không với nội dung và yêu cầu của đơn kiện. Trong giai đoạn tranh tụng (thủ tục miệng), một hội đồng gồm năm thẩm phán của Tòa án sẽ xem xét vụ việc. Sau khi nghe các bên tranh tụng và nghị án, Tòa sẽ tuyên án. Phán quyết của Tòa án là chung thẩm, các bên không được phép kháng cáo.

Ngoài chức năng xét xử, Tòa án quyền con người châu Mỹ còn có chức năng tư vấn cho Ủy ban Quyền con người và các quốc gia thành viên OAS về các vấn đề liên quan đến áp dụng Công ước châu Mỹ về quyền con người và các văn kiện khác về quyền con người trong khu vực. Ngoài ra, Tòa còn có quyền tư vấn về tính phù hợp của các văn bản và dự thảo văn bản pháp luật của các quốc gia với Công ước châu Mỹ về quyền con người.





Ảnh: Tòa án Châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc


3. Cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Châu Phi

   Nền tảng của hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu Phi là Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc (African Charter on Human and Peoples’ Rights), được thông qua bởi Tổ chức Liên minh châu Phi (Organization of African Uninty – OAU) vào ngày 27/6/1981, có hiệu lực vào ngày 21/10/1981. Đây là văn kiện nền tảng trong hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu Phi[2]. Cùng với ngày Hiến chương này có hiệu lực, Ủy ban quyền con người và quyền các dân tộc châu Phi (African Commission on Human and Peoples’ Rights) cũng đi vào hoạt động. Tuy nhiên, chỉ đến khi Nghị định thư bổ sung Hiến chương quyền con người châu Phi (được thông qua năm 1998) có hiệu lực vào ngày 25/1/2004, Tòa án châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc (African Court on Human and Peoples’ Rights) mới chính thức được thành lập.

         Bộ máy cơ quan quyền con người của châu Phi bao gồm Ủy ban quyền con người và quyền các dân tộc châu Phi và Tòa án Quyền con người châu Phi. Ủy ban quyền con người và quyền các dân tộc châu Phi bao gồm 11 thành viên được bầu chọn bằng bỏ phiếu kín bởi Đại hội Nguyên thủ quốc gia OAU (sau này là Đại hội đồng AU). Trụ sở Ủy ban đặt tại Gambia. Ủy ban có có các chức năng: Bảo vệ các quyền con người và quyền của dân tộc; Thúc đẩy các quyền con người và quyền của dân tộc; Giải thích Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền của dân tộc. Để thực hiện các chức năng này, Ủy ban được trao quyền “thu thập tài liệu, triển khai nghiên cứu về các vấn đề của châu Phi trong lĩnh vực quyền của con người và quyền của dân tộc; tổ chức các hội nghị, hội thảo; phổ biến thông tin, khuyến khích các tổ chức quốc gia và khu vực quan tâm đến vấn đề quyền con người; đưa ra các khuyến nghị đối với các chính phủ về các vấn đề về quyền con người” (Điều 45 Hiến chương). Kể từ khi Tòa án Quyền con người châu Phi được thành lập và đi vào hoạt động, Ủy ban có thêm nhiệm vụ là chuẩn bị các vụ kiện để đưa ra Tòa án.

         Tòa án Quyền con người châu Phi (Tòa án châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc) được thành lập kể từ khi Nghị định thư bổ sung Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc (được thông qua năm 1998) có hiệu lực (năm 2004). Tháng 7 năm 2004, Đại hội đồng AU đã quyết định sáp nhập Tòa án Quyền con người châu Phi với Tòa Công lý châu Phi (African Court of Justice). Tòa án gồm 11 thẩm phán được bầu với nhiệm kỳ 6 năm, hoạt động bán thời gian. Tòa chỉ có quyền đưa ra các ý kiến tư vấn. Tòa nhóm họp phiên đầu tiên vào tháng 7 năm 2006.



Ảnh: Cơ quan Nhân quyền ASEAN được chính thức được thành lập năm 2009 (Huahin, Thái Lan - tháng 10/2009)

4. Thực trạng và triển vọng của cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Châu Á

   Châu Á - châu lục khổng lồ về con người với dân số chiếm một nửa nhân loại - có quá nhiều khác biệt về tôn giáo, văn hóa, lịch sử, chính trị và cả kinh tế. Đây có lẽ là lý do chính khiến châu Á là châu lục lớn nhất nhưng duy nhất hiện chưa thiết lập được cơ chế chung về bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.

   Mặc dù vào năm 1993, trong tiến trình chuẩn bị cho Hội nghị thế giới lần thứ hai về quyền con người, các quốc gia châu Á đã có tiếng nói chung về vấn đề này trong Tuyên bố Băng cốc về quyền con người (The Bangkok Declaration of Human Rights), nhưng xét tổng thể, trong tương lai gần khó có thể thành lập được một cơ chế quyền con người của khu vực châu Á. Cũng liên quan đến vấn đề này, năm 1997, một tổ chức phi chính phủ trụ sở ở Hồng Kông có tên là Ủy ban quyền con người châu Á (Asian Human Rights Commission) đã vận động các tổ chức phi chính phủ trong khu vực thông qua Hiến chương Quyền con người châu Á (Asian Human Rights Charter)[3], tuy nhiên văn kiện này không mang tính pháp lý và ảnh hưởng của nó trên thực tế rất hạn chế.

   Dù vậy, ở một số phần của châu Á hiện đã tồn tại những văn kiện và thiết chế chung, cho thấy những triển vọng nhất định về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, cụ thể như sau:

 Trong khu vực thế giới Ả-rập, hiện đã có các văn kiện về quyền con người bao gồm: Tuyên bố Cairo về quyền con người trong các quốc gia Hồi giáo (Cairo Declaration on Human Rights in Islam), 1990; Tuyên bố về bảo vệ người tị nạn và người bị chuyển dịch trong thế giới Ả-rập (Declaration on the Protection of Refugees and Displaced person in the Arab world), 1992; Hiến chương Ả-rập về quyền con người (Arab Charter on Human Rights), 1994. Hiện tại, các nước A-rập đang thảo luận để tiến tới thành lập một cơ quan bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của khối này dựa trên những văn kiện đã nêu.

 Đông Nam Á là nơi được coi là có mối liên kết tiểu khu vực chặt chẽ nhất tại châu Á với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập từ năm 1967, hiện gồm mười quốc gia thành viên. Năm 2008, Hiến chương của Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á được thông qua, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của tổ chức này. Ngoài các nội dung khác, Hiến chương có một điều khoản (Điều 14) quy định thành lập cơ quan quyền con người khu vực. Ngoài Hiến chương, vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người còn được ghi nhận trong nhiều văn kiện khác của Hiệp hội như Chương trình hành động Hà Nội (1997-2004); Chương trình hành động Viên-chăn (2004-2010); Tuyên bố về sự tiến bộ của phụ nữ của ASEAN (1988); Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ ở khu vực ASEAN (2004); Tuyên bố chống lại việc buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em ở ASEAN (2004); Khuôn khổ hợp tác ASEAN-UNIFEM (2006); Hợp tác ASEAN-UNICEF về trẻ em; Kế hoạch hành động ASEAN về trẻ em  (1993); Tuyên bố ASEAN về những cam kết về trẻ em ở ASEAN (2001); Tuyên bố chống buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em (2004); Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú (2007)…

        Hiện tại, các quốc gia ASEAN đã nhất trí về việc thành lập Cơ quan bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chung (ASEAN Human Rights Body). (Xem thêm tin:
Ngoại trưởng ASEAN ra Thông cáo chung tái khẳng định vai trò của AICHR - Hà Nội, 20/7/2010)



(Tham khảo Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền con người, Khoa Luật - ĐHQGHN, NXB CTQG, 2009)

[1] Ngoài Công ước này, hệ thống các văn kiện về quyền con người của châu Mỹ còn có: Công ước châu Mỹ về phòng ngừa và chống tra tấn (1985); Nghị định thư bổ sung Công ước châu Mỹ về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1988); Nghị định thư bổ sung Công ước châu Mỹ về xóa bỏ hình phạt tử hình (1990); Công ước châu Mỹ về chống cưỡng bức đưa đi mất tích (1994);  Công ước châu Mỹ về phòng ngừa và xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ (1994); Công ước châu Mỹ về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với người khuyết tật (1999)..

 

[2] Tính đến nay, hệ thống các văn kiện cơ bản về quyền con người của châu Phi gồm có: Công ước OAU về các lĩnh vực đặc biệt của vấn đề tị nạn ở châu Phi, 1969; Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, 1981; Nghị định thư bổ sung Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc về việc thành lập Tòa án Quyền con người châu Phi, 1998; Hiến chương châu Phi về quyền trẻ em, 1990.

 

[3] Xem thêm: AHRC.org. hk


Các tin khác: