SỐ 11 - QUYỀN TỴ NẠN
Theo Điều 14 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) thì mọi người đều có quyền xin tỵ nạn và hưởng tỵ nạn (seek and enjoy asylum) để tránh sự truy bức, ngược đãi.

Cụ thể, tại Khoản 1 điều 14 khẳn định: “ Mọi người đều có quyền tìm kiếm và hưởng tỵ  nạn ở nước khác khi bị ngược đãi.”

Tuy nhiên, Tuyên ngôn cũng nêu ngoại lệ không áp dụng quyền này: “2. Quyền này không được áp dụng trong  trường hợp đương sự bị truy tố về những tội phạm không mang tính chất chính trị hay vì những hành vi đi ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.”

 

Sau Tuyên ngôn 1948, hệ thống luật quốc tế về người tỵ nạn đã phát triển khá phong phú. Đặc biệt quan trọng là: Công ước về vị thế của người tị nạn (1951)Nghị định thư của Công ước (1967).

 

Ảnh trên: người tỵ nạn Iraq.


Văn phòng Cao Ủy Liên hợp quốc về Người tỵ nạn ( Office of the United Nations High Commissioner for Refugees - UNHCR) được thành lập vào ngày 14/12/1950 bởi Đại hội đồng LHQ, là cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền của người tỵ nạn.

 

Xem thêm Trang tin của  UNHCR.

 

 


Ảnh: ký kết Công ước về người tị nạn.


* Theo Wikipedia thì:



Tỵ nạn là một trường hợp phải chạy trốn ra một xứ khác để thoát cảnh hiểm nguy, ngược đãi, hoặc bắt bớ bởi một quyền lực ở chốn cư ngụ.


Khái niệm tỵ nạn đã có từ thời cổ đại khi người trốn tránh có thể tìm đến nơi thần quyền như ở một ngôi đền để lánh nạn mà không bị bắt. Thời
Trung cổ Âu châu cũng ghi nhận một số luật lệ quy định quyền lánh nạn ở chốn tôn nghiêm thờ phụng. Trong sử Việt thì có chép việc vua Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho con là Công chúa Chiêu Thánh và rồi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Dù vậy Huệ Tông cũng bị Trần Thủ Độ làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn, hưởng dương 33 tuổi.


Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở Pháp có
Sắc lệnh Fontainebleau (Édit de Fontainebleau) khi vua Louis XIV xuống chiếu cấm đạo Tin Lành khiến hàng trăm nghìn giáo dân Huguenot phải bỏ quê hương trốn sang các nước Anh, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Đức, v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm đạo Do Thái làm hơn hai triệu dân đạo ở Nga phải bỏ chạy vào những thập niên cuối thế kỷ 19.

Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là Cao ủy Tỵ nạn của Hội Quốc Liên vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưởi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân Armenia ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng.

Đệ nhị Thế chiến đánh dấu một bước rẽ với con số dân tỵ nạn lên cao và ảnh hưởng một vùng rộng lớn. Năm 1943 phe Đồng minh cho thành lập Quyền vụ Cứu trợ và Phục hồi Liên quốc (United Nations Relief and Rehabilitation Administration UNRAA) để giúp ổn định những khu vực mới được giải phóng khỏi vòng kiểm soát của phe Trục. Công tác này bao gồm việc định cư hơn bảy triệu dân sơ tán nay cần được hồi hương. Số khoảng một triệu người không muốn hồi hương thì cần trại tạm trú.


Hội nghị Potsdam
năm 1945 cũng hoạch định lại biên giới ở Âu châu khiến 15 triệu dân Đức bỗng nhiên thuộc thẩm quyền của nhà chức trách mới của Ba Lan, Tiệp Khắc, và Hung Gia Lợi. Trong khi đó Hội nghị Yalta có ghi điều kiện buộc hồi hương hàng triệu dân Nga về Liên Xô
.

 

 

 

 


Các tin khác: